PHÒNG THỦY THÂN PHÁP
Tý, Dần, Thìn và Càn, Bính, Ất là chân vị của trưởng nam; Ngọ, Thân, Tuất và Khôn, Nhâm, Tân là chân vị của thứ nam; Mão, Tỵ, Sửu và Cấn, Canh, Đinh là chân vị của kế nam; Dậu, Hợi, Mùi và Tốn, Giáp, Quý là chân vị của thiếu nam. Chiết Thủy thứ nhất là trưởng Phòng (nam) chiết Thủy, Càn, Bính, Ất; chiết Thủy thứ hai là tình huống của thứ Phòng, Khôn, Nhâm, Tân đồng hành; chiết Thủy thứ ba là thuộc về kế Phòng, Cấn, Canh, Đinh; chiết Thủy thứ tư là cung vị của thiếu Phòng, Tốn, Giáp, Quý gặp nhau tại đây. Nhất Long rời xa Thủy khẩu, con cháu bất lợi, chủ về tha phương cầu thực, nhưng nếu ở vị trí của Thủy thì không đáng ngại. Nhị Long đi trước, còn lại một Nhất Long đơn độc thì có người dưỡng dục con cháu. Nhị Long Chiết Thủy gặp Chân Long thì tay trắng làm nên cơ nghiệp. Tam Long đi trước, Nhất Long đơn độc ở nhờ và nhờ người nuôi dưỡng con cháu. Không phân rõ vị trí của Tứ Long thì cả nhà chịu chết. Dùng 24 sơn để nói Phụ Mẫu, Huynh Đệ, Tử Tôn phải có tôn ti trật tự, người dưới đi lẫn với người trên là loạn về thứ tự, Ngũ Hành trong phản chủ, con cháu được người khác nuôi dưỡng.
- Kim Mộc Thủy Hỏa tự có một vung vị riêng, sinh khí và vận mệnh cũng khác nhau, hiểu tỉ mỉ sinh khí của Tứ Hành hợp với vận mệnh, tự nhiên sẽ phát phúc, phát thịnh.
Tý Dần sơn thuộc Kim, chẳng hạn Cấn sơn Bính hướng có Thủy đi tới hướng Đinh, Canh thì là Kim sinh Thủy, người mệnh Kim Thủy thì sẽ phú quý. Ngọ, Thân sơn thuộc Mộc, ví dụ như Nhâm sơn Ngọ hướng, hướng có Thủy tới là Khôn và Ngọ thì là Mộc sinh Hỏa, người mệnh Mộc thì phú quý song toàn. Mão, Tỵ sơn thuộc Thủy, tỷ như Cấn sơn Đinh hướng, Canh hướng thi người mệnh Thủy Thổ phú quý.
- Can và Chi Thủy phải hỗ trợ nhau. Trong cung Chấn, trưởng nam đạt được nhiều may mắn; cung Đoài là vị trí của thiếu nam; cứ chiếu theo đây mà tính , song với tử tức thì khác.
Chấn là trưởng, Đoài là thiếu, Ly Khảm là giữa, đó là hình thế của sơn mà người ta thường bàn tới.
TƯƠNG SINH TƯƠNG KHẮC
Kim đến cung Hỏa người chết sạch; Hỏa đến cung Kim ắt hại tới vợ con; Kim Hỏa tương hình, người phải tự vẫn và ly biệt. Ví dụ như Hợi sơn Bính hướng là Hỏa đến cung Kim; Càn sơn Tốn hướng la Kim đến cung Hỏa, dù vậy lại có cách chuyển cung thuận Long để hóa giải hung tai. Ví dụ Hợi sơn Bính hướng có Thủy tới Tốn, Giáp; Dậu sơn Ất hướng có Thủy tới Mùi, Quý; Ngọ sơn Quý hướng Thủy về Giáp, nếu có Thủy Canh, Dậu, Tân thì phát phúc trường tồn; về Càn cũng phát phú, song con cháu sinh bệnh tật.
NHỊ THẬP TỨ SƠN HOÀNG TUYỀN
Tý, Dần, Thìn, Càn, Bính, Ất tối kỵ Tốn Thủy rời đi; Ngọ, Thân, Tuất, Khôn, Tân, Nhâm cần có Càn Thủy tới; Mão, Tỵ, Sửu, Cấn, Canh, Đinh cần có Khôn Thủy dừng; Dậu, Hợi, Mùi, Tốn, Giáp, Quý cần có Cấn Thủy đến.
+ Tý, Dần, Thìn, Càn, Bính, Ất thuộc hành Kim, là Nhất Long sinh tại Tỵ, Tốn và Tỵ đồng cung là Thủy lưu tới phá Tràng Sinh, cát.
+ Ngọ, Thân, Tuất, Khôn, Tân, Nhâm thuộc hành Mộc, là Nhị Long sinh tại Hợi, Càn Hợi đồng cung là Thủy lưu tới phá Tràng Sinh, cát.
+ Mão, Tỵ, Sửu, Cấn, Canh, Đinh thuộc hành Thủy, tức Tam Long sinh tại Thân, Khôn Thân đồng cung là Thủy lưu tới phá Tràng Sinh, cát.
+ Dậu, Hợi, Mùi, Tốn, Giáp, Quý thuộc hành Hỏa, tức Tứ Long sinh tại Dần, Cấn Dần đồng cung là Thủy lưu tới phá Tràng Sinh, cát.
TỨ LỘ HOÀNG TUYỀN
Canh, Đinh, kỵ gặp Khôn Thủy; Ất, Bính kỵ gặp Tốn Thủy; Giáp, Quý không nên gặp Cấn Thủy; Tân, Nhâm sợ nhất càn Thủy tới. Trương Tông Đạo nói: “Từ Canh tới Đinh đều kỵ Khôn, từ Ất đến Bính đềy kỵ Tốn, từ Quý đến Giáp đều kỵ Cấn, từ Tân đến Nhâm đềy kỵ Càn”. Phương pháp này chủ về lập hướng, khai môn, chiết Thủy, đặt Thủy, đều cần tránh kỵ, nếu phạm gần vào nó thì tai họa sẽ tới nội trong 6-12 năm, nếu phạm khá xa thì phải 24 năm sau mới xuất hiện tai họa, còn kỵ thì chỉ kỵ đi (khứ) mà không kỵ đến (lai). Như Canh hướng Đinh Thủy, rời xa 12 năm tới Khôn thì dừng. Ước lượng độ dài ngắn của nó mà định họa phúc trong năm, qua đến Mùi thì hết tai ương. Nếu Tỵ hướng Khôn Thủy đi mãi không dừng, thì nó chủ tuyệt vọng.
THẬP NHỊ CHI HOÀNG TUYỀN
Tý, Sửu, Dân, Mão, có Cấn Thủy thì hung; Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, không nên vào cung Tốn; Ngọ, Mùi, Thân, Dậu đừng gặp Khôn; Dậu, Tuất, Hợi, Tý chẳng nên gặp Càn. Chúng đến (lai) cần Sinh Vượng, đi (khứ) cần Bệnh Tử. Dương can lập hướng, Thủy khẩu Thai Tuyệt thì chủ phú quý song toàn.
CỨU KHỐN HOÀNG TUYỀN
Đây chính là Tứ Lộ Hoàng Tuyền đều chủ về Hướng, Lai Thủy thời cát, Khứ Thủy hung. “Tân An Phả Chi” viết: “Nhâm sơn Bính hướng Giáp môn khai, Ngũ bách niên trung sản đại tài” là Nhâm sơn Bính hướng Giáp Thủy, giàu sang suốt 500 năm vì Dương Nhâm gặp Càn, Giáp cũng nạp Càn nên giàu sang, từ Nhâm tới Giáp cách 5 vị niên nên nói suốt 500 năm. Thủy bên dưới Tử Dương sơn rời đi, năm Ất, Canh thiếu niên yểu chiết vì Tứ Kinh Ngũ Hành Bính hướng thuộc Kim, Tứ Dương Thủy đi qua vị tri Tốn, Tỵ thuộc Hỏa tức phá Tràng Sinh. Ất, Canh hóa giải Kim để cứu vãn tai họa năm đó, song thiếu niên phải chết yểu vì Sinh Dương chủ về trẻ nhỏ. Cách cứu như sau: Phải lấy Hướng làm chủ, cần tránh phạm vào Môn Lộ, Trì Tỉnh, Câu Hà, Chiết Thủy của Tốn, Tỵ, nếu Tốn, Tỵ hướng có đường đi thì gọi là Đạp Phá Tràng Sinh, cũng gọi là Hoàng Tuyền.
HUYỀN VĂN QUAN THIÊN ĐẠI QUÁI
Huyền Văn quan Thiên chính là Thìn sơn Tuất hướng hoặc Tuất sơn Thìn hướng, Thìn là Thiên La, Tuất là Địa Võng vô cùng hung họa. Lại có Dần hướng Giáp Thủy, Ất hướng Tốn Thủy đời đời làm quan; Bính Thìn là Long, Dần là Hổ, cần tìm kỹ nguồn gốc của chúng; Tốn Bính chính thần là Lục Tú đến, suốt đời thanh nhàn; Mão sơn Tân hướng Càn Thủy, phú quý mà còn có thể làm quan.
NGŨ HÀNH THIẾT CƯỚC QUAN
Kim gặp Tuất thành Thiết, Hỏa tới Mùi Thân thi tuyệt tích, Mộc gặp Thìn cành lá khô héo, Thủy Thổ Sửu Dần thời cạn. Ngũ Hành gặp buổi suy tàn gọi là Quan, nơi Thủy Thành chảy ra phạm phải Quan Sát trước mặt, chủ thiếu niên chết yểu (cũng là ý tương giao bất cập). Cuốn Kinh này có tên là “Thiên Ngọc Kinh”. Phần nội truyện viết: “Thủy phải đi nghịch từ Tứ đến Tam qua Nhị tới Nhất”. Phần Ngoại Truyện viết: “Thủy phải đi thuận từ Nhất qua Nhị sang Tam đến Tứ”. Đó là vì khi bàn tới Công vị thì dùng nghịch, luận tới Chiết Thủy thì dùng thuận. Tóm lại, nghịch mà không loạn thứ tự của Nghịch, thuận mà không loạn thứ tự của Thuận thì mới đúng với hàm ý của Thiên Ngọc Nội Ngoại Truyện.
Sưu tầm -Tôn sư Phong thủy Triệu tiên sinh
(Còn nữa)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|