THIÊN NGỌC KINH NGOẠI THIÊN
HUYỀN KHÔNG ĐẠI QUÁI QUYẾT
- Huyền Không quái cũng là Tứ Kinh Ngũ Hành, nó có năm (5) cách dùng.
Thiên, Địa, Âm Dương quái còn gọi là Huyền Không quái. Vần tìm nguồn gốc của Càn, Khôn, Cấn, Tốn, Khảm, Ly, Chấn, Đoài, nên phải thân Thiên Địa, tìm Ngũ Hành tại đó.
Tứ Kinh là:
1- “Thiên Bảo Kinh”: Càn, Bính, Ất, Tỵ, Dần, Thìn lục vị cùng thuộc Kim
2- “Huyền Nữ Kinh”: Cấn, Canh, Đinh và Mão, Tỵ, Sửu lục vị đều thuộc Thủy có thể do người tới số định, số đã kể trên đều thuộc Dương, Dương sơn Dương thủy mới có thể tương phối.
3- “Long Tử Kinh”: Khôn, Nhâm, Tân và Ngọ, Thân, Tuất lục vị đều thuộc Mộc mà mấy ai biết.
4- “Bao Chiếu Kinh”: Tốn, Giáp, Quý va Hợi, Dậu, Mùi lục vị đều thuộc Hỏa. Số đã kể trên đều thuộc Âm, tương ứng với Âm sơn, Âm thủy. Đây đều là Thiên, Địa, Âm Dương quái trong Ngũ Hành, nên gọi là Tứ Kinh, nếu Thủy lưu phá vương Vượng thì tài lộc hội tụ, nếu phá phương Sinh thì tổn hao người, ở Hoàng Tuyên đóng trên vị trí của Tràng Sinh, nếu năm đó cốt can hóa đi thì tất bị hình thương, đó là chân khẩu quyết của Cửu Thiên Huyền Nữ, không nên coi nhẹ truyền cho những người bạc phúc.
Năm cách dùng:
1- Chi Thần là Chính, Can Thần la Linh; Chính Thần ở trên Sơn, Linh Thần ở dưới Thủy.
2- Sơn chủ nhân đinh, Thủy chủ quản tài lộc, tứ Long chia làm tứ Phòng.
3- Sơn hướng Thủy lộ phải theo thứ tự nhất nhị tam tứ, tức Sơn khắc Hướng là thuận, chủ đại phú quý. Nếu Hướng khắc Sơn là nghịch, chủ bần hàn.
4- Sơn hướng Thủy cùng ở trong quái, chủ phú quý; nếu rời quái thì nghèo hèn.
5- Thủy đi (khứ) phải quay đầu, trong tứ Long phải có Bản Long Thủy mới tốt; không có Bản Long Thủy thì chỉ giàu mà không sang, ví dụ như Ất Bính, đặt Thủy, đặt mấy lần thì thành Ất Bính Thủy, như thế gọi là quay lại.
- Nhất Long Kim vị chủ phú quý con cháu đầy nhà. Thìn sơn Càn hướng đặt Càn
Thủy hay Càn sơn Ất hướng đặt Ất Thủy đều là Kim gặp Kim, chủ phú quý song toàn. Nhị Long tại Mộc vị, vượng về nhà cửa, đất đai. Khôn sơn Nhâm hướng đặt Nhâm Thủy thì tốt là vì Mộc gặp Mộc. Tam Long rời bản vị, vàng bạc đầy nhà. Cấn sơn Đinh hướng đặt Đinh Thủy; Canh hướng đặt Canh Thủy, là Thủy gặp Thủy, chủ phát về giàu có. Tứ Long đi tới vị trí của Hỏa, phú quý song toàn. Dậu sơn Giáp hướng đặt Giáp Thủy là Hỏa gặp Hỏa. Chính Thần trên núi, con cháu đầy nhà; Linh Thần dưới nước, chủ cao sang. Linh Thần gặp Chính Thần chủ tai họa; Chính Thần ngoài trăm bước mới thành Long, Thủy lưu ngắn thì hung; Linh Thần bất kể Thủy lưu dài hay ngắn.
Đoạn này chỉ phương pháp tìm Linh và Chính Thần. Chính Thần thì tìm trên núi mà Linh Thần tìm dưới nước và chú trọng tới việc Chính Thần phải ra ngoài trăm bước mới thành Chân Long cùng độ dài ngắn của Thủy lưu.
- Nếu Ngũ Hành khắc Hướng, con cháu giàu sang; nếu gặp Hướng mà thấy có hai
thần đi cùng thì phú quý trường tồn. Phàm Sơn khắc Hướng thì tốt, như Tý sơn Ngọ hướng (Tý thuộc Thủy, Ngọ thuộc Hỏa) chính là trưởng khắc thứ. Là Thủy khắc Hỏa, Thủy là một thần Hỏa là một thần nên nói gặp được Hướng có hai thần đi cùng. Nơi sinh Nhất Long có Tam Long, đời đời vinh hiển. Tam Long là chủ của Ngũ Hành, bản thân nó thuộc Thổ, Thủy trong Ngũ Hành phải đắc Thổ, Sinh Vượng Mộ cũng vậy. Tam Long cát thì Nhất, Nhị, Tam, Tứ Long cũng cát, nếu hung thì cùng hung.
Đoạn này nói về Tam Long, chỉ có Tam Long kiêm hai hành Thủy, Thổ. Thủy, Thổ có Sinh Vượng Mộ cũng như vậy. Do vậy, nó cát hay hung thì ba Long còn lại cũng cát hay hung theo.
Sưu tầm -Tôn sư Phong thủy Triệu tiên sinh
(Còn nữa)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|