LUẬN THIÊN TINH TÁC HƯỚNG
Tầng 14
Thiên tinh là Huyệt pháp trong Thôi Quan Thiên. Luận giảng bộ phận tai, eo lưng, chân hấp thụ sinh khí, không bố lên não bộ một cách hỗn tạp… Cho nên nói Dương sơn Dương hướng, Thuỷ cũng lưu (chảy) Dương thì đại phú quý. Âm sơn Âm hướng, Thuỷ cũng lưu Âm, thì gia đình giàu có, vàng bạc đầy nhà. Phần trước đã luận thuật, không nhắc lại ở đây
LUẬN PHÙNG CHÂM PHÂN KIM
Tầng 15
Ta tong tham khảo các bộ sách cổ, không thấy nói gì về"Phùng Châm Phân Kim" có thể nói Hà Tiềm Trai đời Tống là người đầu tiên dùng "Phùng Châm" phân kim mà gia giảm thêm bớt, cho nên cách phân loại tam thất (ba,bảy), nhị bát (hai, tám). Người ta dùng nội bàn để thẩm tra Long mạch, dùng ngoại bàn để xét Huyệt vị đều là sai lầm về phương pháp.
LUẬN ĐỘN GIÁP
Tầng 16
Cửu cung Độn Giáp y theo tinh diệu mà bắt đầu (khởi) từ Giáp Tý, Đông Chí đi thuận, Hạ Chí đi nghịch.
Dương độn, bắt đầu từ tiết Đông Chí, cuối cùng là Mang Chủng
Quyết ngữ nói :
"Đông Chí, Kinh Trập 1, 7, 4; Tiếu Hàn 2, 8, 5; Đại Hàn, Xuân phân 3, 9. 6; Lập Xuân 8, 5, 2; Thanh Minh, Lập Hạ 4, 1, 7; Vũ Thuỷ 9, 6, 3; Tiểu Mãn, Cốc Vũ 5, 2, 8; Mang Chủng 6, 3, 9"
Âm Độn, bắt đầu từ Hạ Chí, kết thúc ở Đại Tuyết.
Quyết ngũ nói :
"Hạ Chí, Bạch Lộ 9, 3, 6; Đại Tuyết 4, 7, 1; Đại Thử, Thu phân 7, 1, 4; Tiểu Thử 8, 2, 5; Lập Đông, Hàn Lộ 6, 9, 3; Lập Thu 2, 5, 8; Tiểu Tuyết, Sương Giáng 5, 8, 2; Xử Thử 1, 4, 7"
Thượng Diệu, Giáp Kỷ, Tý Ngọ, Mão Dậu cư ở Trung cục. Giáp, Dần, Thân, Tỵ, Hợi cư ở Hạ cục. Giáp Kỷ không có số, nên quy về Thìn Tuất Sửu Mùi. Xuyên sơn quái từ đây mà ra, Bát môn (tám cửa), Tú cát, Tam Kỳ, Tử, Phụ, Tài, Quan, vv…đều từ đây mà ra.
Cách tính như sau :
Đông Chí 1, thuận chiều kim đồng hồ cộng 6 thành 7 Trung cục, 7 cộng thêm 6 thành 13, lại cộng thêm Khảm 1, giảm đi 10, còn 4 Hạ cục, cho nên nói Đông Chí 1, 7, 4, các số còn lại theo cách đó mà ra.
Hạ Chí Ly 9 Thượng cục, nghịch chiều kim đồng hồ, giảm đi 6 còn 3 là Trung cục, 3 cộng Ly 9 rồi trừ đi 6 là Hạ cục. Âm Dương Độn lập theo cách đó.
Thượng cục Giáp Kỷ, đưa vào Tý Ngọ Mão Dậu; Trung cục Giáp Kỷ, đưa vào Dần Thân Tỵ Hợi; Hạ cục Giáp Kỷ, đưa vào Thìn Tuất Sửư Mùi, thuận số kim đồng hồ cộng 5 là được.
|
LUẬN THẤU ĐỊA 60 BÌNH PHÂN LONG
Tầng 17
Thấu địa Long Giáp Bính Mậu Canh, phân bố trên hai sơn Nhâm sơn, Tý sơn.
Thấu Địa Long Ât, Đinh Tỵ Tân Quý, phân bố trên hai sơn Sửu sơn và Quý Sơn.
Phương pháp này bắt đầu từ đầu Ngâm, kết thúc ở cuối Hợi. Hai sơn Nhâm, Hợi có vị trí can như nhau so với Sửu vị, nên gọi là bình phân, Giáp Tý, ba phần Hơpị bảy phần Nhâm, Bính Tý ở chính giữa Nhâm; Mậu Tý, năm phần Nhâm năm phần Tý; mCanh Tý ở chính giữa Tý; Nhâm Tý, bảy phần Tý ba phần Quý, đều là lấy Nhâm Tý sơn làm cách thức để phân biệt Long mạch là chân hay giả, cho nên muốn điểm huyệt, xét sơn, xem thuỷ đều có thể dựa vào đó mà xác định.
Sưu tầm_ Tôn sư phong thủy Triệu tiên sinh
(Còn nữa)< Lùi |
---|